Kỳ 3 thiên phóng sự đặc biệt: Sự thật về trận đánh bi tráng K'nack và những chuyện kỳ bí trong hành trình tìm gần 500 hài cốt liệt sĩ ở Tây Nguyên
TRẢ LẠI TÊN CHO CÁC ANH
Cũng trong thời gian ở K’Bang, đoàn công tác đã chia đội ngũ các nhà ngoại cảm ra làm 2 nhóm nhằm mở rộng phạm vi tìm kiếm hài cốt của gần 500 liệt sĩ còn vùi sâu đâu đó khắp K’Nak. Nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy làm một nhóm. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, đại tá Hàn Thuỵ Vũ, nhà giáo Đoàn Thanh Hương (thư ký Đoàn) làm một nhóm khác cùng đông đảo các nhân chứng. Và kỳ diệu như trong chuyện cổ tích, các nhà ngoại cảm với khả năng đặc biệt siêu phàm như thấu thị, đối thoại (nhìn thấy và trò chuyện với các vong hồn) đã nhanh chóng tìm thấy các hố chôn tập thể hài cốt liệt sĩ giữa mênh mông đồng bãi, ngút ngàn cỏ lau, điệp trùng suối, núi…, hơn thế, còn xác định được danh tính của từng người, điều mà với những con mắt trần thường tình của người đời là điều không thể.
Ở hố chôn thứ nhất, dọc con suối Đắc-lốp, trong lùm cây rậm rạp, dưới gò mối lớn tìm được 22 liệt sĩ. Qua Bích Hằng, các liệt sĩ cho biết: đây là hố chôn tập thể. Phần nửa phía tây, gần căn cứ K’Nak, bị địch chất đống đổ xăng đốt nhưng mùi da thịt cháy khét lẹt bốc lên đồi khiến chúng không chịu nổi nên nửa hố phía đông, chúng dùng máy xúc đào đất lấp vùi. Bích Hằng lấy được tên tuổi, địa chỉ quê quán của cả 22 người. Điều đặc biệt là sau này, khi đối chiếu những tên tuổi này với danh sách các liệt sĩ ở Trung đoàn 95A và Tiểu đoàn đặc công 409 thì trùng khít.
Ở hố chôn thứ 2, bên dãy cây bạch đàn có gò mối lớn, cách hố thứ nhất khoảng 100m, tìm được tên 12 liệt sĩ.
8h sáng ngày 1 tháng 4 năm 2002, Đoàn lên đồi thông K’Nak để xác minh một ngôi mộ vô danh. Đây chính là cứ điểm phía Bắc của cụm cứ điểm biệt kích K’Nak. Nhà ngoại cảm Bích Hằng thắp hương mời vong liệt sĩ lên trò chuyện. Liệt sĩ cho biết tên là Nguyễn Văn Minh, chính trị viên Đại đội 40, Tiểu đoàn đặc công 409, quê ở Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Nhân chứng tại chỗ, anh hùng lực lượng vũ trang, trung tá Nguyễn Ngọc Bình, nguyên Đại đội trưởng đại đội đặc công 40 (D409) xác nhận: thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông kể: khi quả pháo nổ trước mặt, anh Minh ngã vật xuống, anh Lê Xuân Hổ văng ra, đồng chí liên lạc hy sinh tại chỗ còn ông thì bị thương gẫy tay phải.
Liệt sĩ Minh hỏi Trung tá Bình (qua nhà ngoại cảm): “Anh Lê Xuân Hổ thế nào?”. Trung tá Bình, tay chắp trước ngực, mắt nhìn vào làn khói hương nghi ngút trên mộ đồng đội, trả lời, giọng run run: “Anh Lê Xuân Hổ lên giúp Tây Nguyên. Năm 1972, chuyển đơn vị về Chu Lai, làm trung đoàn phó chiến đấu ở Tuyên Phước. Trong lúc đi điều tra, anh ấy đã hy sinh”. Liệt sĩ Minh: “Anh Trần Tấn Ước (tiểu đoàn phó tiểu đoàn 409 – tác giả) có khoẻ không? Tôi rất xúc động khi gặp các anh. Tuy nằm ở trên đồi này mát mẻ nhưng tôi không thích vì gần đồn địch. Tôi muốn về quê. Bố tôi là Nguyễn Văn Tỉnh ở Thạch Khê, Hà Tĩnh nhưng đã mất. Còn em là Nguyễn Văn Tiến nhà nghèo, không đủ khả năng đưa tôi về. Trước mắt cho tôi về nghĩa trang liệt sĩ với anh em. Chân phải tôi bị gãy. Tôi nằm trong một khe đá nhỏ, không có người chôn. Giỗ tôi ngày 8 tháng 3”.
Người tìm thấy hài cốt liệt sĩ Minh là anh Giang Xuân Lâm, 40 tuổi, quê ở Thái Bình. Ngày 18 tháng 10 năm 1992 (Âm lịch), trong khi đào phế liệu, anh Lâm phát hiện cạnh tấm tôn có xương hàm nên bới cẩn thận, lật lên thấy hài cốt. Xương dài, cao. Xương chân bên trái còn có băng cuốn. Gia đình anh đã di chuyển mộ 2 lần. Năm 1995, đưa về an táng trên đồi thông.
9h30’ cùng ngày, đoàn khảo sát một số khu vực dọc suối, thuộc phía đông đồn cũ của địch, Bích Hằng phát hiện dưới vườn khoai lang của dân có 5 liệt sĩ. Do có nhóm công binh đi cùng, đoàn cho khai quật một hố nhỏ, rộng 0,60m, dài 1,2m, sâu 0,60 m thì tìm thấy một chiếc răng và mảnh xương. Sợ không đủ sức nên đoàn không dám đào thêm.
9h30’ cùng ngày, đoàn khảo sát một số khu vực dọc suối, thuộc phía đông đồn cũ của địch, Bích Hằng phát hiện dưới vườn khoai lang của dân có 5 liệt sĩ. Do có nhóm công binh đi cùng, đoàn cho khai quật một hố nhỏ, rộng 0,60m, dài 1,2m, sâu 0,60 m thì tìm thấy một chiếc răng và mảnh xương. Sợ không đủ sức nên đoàn không dám đào thêm.
Sát mép suối, dưới gốc cây sung, Thẩm Thúy Hoàn đọc được tên 5 liệt sĩ. Liệt sĩ Việt bảo: “Cảm ơn đoàn đã bỏ nhiều công sức đi tìm chúng tôi. Cảm ơn anh em đồng đội đã đến đây. Tại sao khi chúng tôi đi có họ tên mà bây giờ vô danh không ai biết tới”. Thấy chị Đoàn Thanh Hương ngồi ghi chép tên tuổi, quê quán các liệt sĩ, liệt sĩ Việt nhắc: “Chị ghi nhầm quê của tôi rồi”.
Cuộc tìm kiếm kết thúc vào ngày 2 tháng 4 năm 2002. Đoàn đã xác định được 10 hố chôn với 128 liệt sĩ trong tổng số gần 500 người hy sinh tại K’Nak. Có danh sách cụ thể và đã đối chiếu với đơn vị. Các nhân chứng từng là cán bộ chỉ huy xác nhận là phù hợp với thực tế.
Cuộc tìm kiếm kết thúc vào ngày 2 tháng 4 năm 2002. Đoàn đã xác định được 10 hố chôn với 128 liệt sĩ trong tổng số gần 500 người hy sinh tại K’Nak. Có danh sách cụ thể và đã đối chiếu với đơn vị. Các nhân chứng từng là cán bộ chỉ huy xác nhận là phù hợp với thực tế.
Lại một mùa mưa rừng qua đi. Giữa lúc lòng anh Mẫn nóng ran như người ngồi trên đống lửa vì hài cốt của người anh và đồng đội vẫn chìm dưới hồ nước bạc thì bất ngờ anh nhận được tin nhắn từ K’Nak: Hồ chứa nước trên dòng suối Đắc-lốp đã cạn. Anh Mẫn mừng rơn như người bộ hành trên sa mạc trong cơn khát cháy bỗng gặp nguồn nước mát. Anh tức tốc báo cáo với Ban chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý, đề nghị cử nhà ngoại cảm vào giúp đỡ khai quật ngay. Anh Mẫn kể lại: “Trước hôm trở lại K’Bang, tôi phải tổ chức buổi họp mặt gia đình gấp. Không hiểu sao, suốt 30 năm vượt thác băng rừng tìm anh, biết bao hiểm nguy rình rập, tôi không sợ. Vậy mà đêm ấy, lòng cứ thấp thỏm không yên. Tôi thông báo với gia đình toàn bộ việc làm của mình cùng toàn bộ hồ sơ, tài liệu, phòng khi gặp chuyện chẳng lành, con cháu có thể thay tôi tiếp tục hành trình tìm kiếm. Nửa đêm, tôi dậy thắp hương cho anh Thành, thầm cầu nguyện vong linh anh sống khôn chết thiêng phù hộ cho tôi chân cứng đá mềm để tìm thấy anh. Và lạ kỳ thay, bát hương trên bàn thờ anh bốc cháy. Tôi hiểu, ở nơi rừng rú heo hút ấy, anh đã nghe được lời nguyện cầu của tôi”.
Sáng 27 tháng 7 năm 2002, nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn (Bích Hằng có việc tại Liên bang Nga nên vắng mặt) cùng bộ phận tìm kiếm vào đến suối Đắc-lốp. Nhưng đập chứa vẫn còn mênh mông nước. Bằng chính tấm tình tha thiết với các liệt sĩ, anh Mẫn đã thuyết phục được chính quyền và nhân dân huyện K’Bang làm một việc “động trời”: tháo đập nước Đắc-lốp. Sau nhiều ngày ăn trực nằm chờ, đập cạn trơ đáy. Lòng vừa khấp khởi mừng thì bất ngờ cơn mưa rừng ập đến. Mưa như trút nước. Mưa sầm sập từ ngày qua đêm. Đập nước lại đầy. Cả đoàn ngồi khóc. Anh Mẫn một lần nữa lại phải cầu xin những người giữ đập xả nước. Lần này, đích thân anh lặn xuống vực nước sâu hơn 4m ùng ục réo để nâng từng tấm gỗ chắn lên. Mọi người ngồi trên bờ sợ thót tim. Chỉ sơ sểnh một tý, cái xác thân vạm vỡ của anh sẽ bị dòng nước cuồn cuộn gào thét cuốn phăng. Nhưng cuối cùng, sức người, nói đúng hơn, lòng người đã thắng. Vài ngày sau, nước rút cạn.
Việc xác định các mốc: gốc cây lớn đã cưa cụt, đường xuống suối cũ, sườn đồi liên quan tới khu vực trạm trung phẫu đều khớp với những dự báo của Bích Hằng từ đợt trước. Về vị trí mộ cũng đã được xác định và cắm cọc từ đợt đó. Vậy mà 4 ngày đào bới cật lực vẫn không thấy dấu vết gì. Mọi người trong đoàn đều hoang mang. Anh Mẫn cũng nản lòng.
Việc xác định các mốc: gốc cây lớn đã cưa cụt, đường xuống suối cũ, sườn đồi liên quan tới khu vực trạm trung phẫu đều khớp với những dự báo của Bích Hằng từ đợt trước. Về vị trí mộ cũng đã được xác định và cắm cọc từ đợt đó. Vậy mà 4 ngày đào bới cật lực vẫn không thấy dấu vết gì. Mọi người trong đoàn đều hoang mang. Anh Mẫn cũng nản lòng.
Đầu giờ chiều, vừa ăn cơm trưa xong, đoàn đang chuẩn bị đào bới một lần nữa thì mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến. Cả khu rừng tối sầm. Bầu trời đen kịt. Anh Mẫn quỳ sụp xuống lạy bốn phương, vừa lạy, vừa khóc. Lần đầu tiên anh khấn trách: “Cháu vào đây làm những việc chưa ai từng làm để tìm anh cháu và các chú, các bác. Vậy mà các bác không thương cháu. Lần này cháu lại phải về không rồi”. Đang tuyệt vọng than vãn như vậy thì bất ngờ, một tiếng reo to như thức tỉnh cả núi rừng: “Chú Mẫn ơi! Tìm thấy rồi”. Người cất tiếng reo vui ấy là Quang, một tân binh vừa tròn 20 tuổi. Cả đoàn hăm hở đào liên tục trong hai tiếng đồng hồ. Và đây rồi, các anh đã hiện ra. 8 bộ hài cốt nằm thành hai hàng, cách nhau 0,5m đều tăm tắp. Tiếng khóc xen lẫn tiếng cười cứ hoang hoải buông trong buổi chiều tàn giữa rừng sâu thăm thẳm.
Khi đoàn làm lễ đưa các liệt sĩ lên xe về huyện đội K’Bang, trời giăng mưa trắng xoá. Thế là, sau 37 năm nằm lạnh lẽo dưới lòng nước bạc, không một nén hương tàn, không một lời thăm viếng, các anh lại trở về trong vòng tay đồng đội, trong niềm xúc động nghẹn ngào của người thân, gia đình.
KỲ 4: NƯỚC MẮT MẸ GIÀ 37 NĂM VÒ VÕ NGÓNG CHỜ. NHẦM LẪN HY HỮU VÀ NHỮNG CHUYỆN KỲ LẠ
(Phóng sự của nhà báo Hoàng Anh Sướng)
(Phóng sự của nhà báo Hoàng Anh Sướng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét