Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

Chuyên mục : Phong Thủy

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sinh ngày 12 tháng 01 năm 1720; mất ngày Rằm tháng giêng năm Tân Hợi, niên hiệu Quang Trung thứ 5 (1791) tại quê mẹ xã Tình Diệm xưa, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Truyền thuyết kể lại rằng, sinh thời ông thường thả diều trên đỉnh Núi Giả, Hồ Sen và ông dặn dò con cháu đến lúc diều rơi ở đâu thì khi ông mất an táng ông ở đó. Mộ của ông bây giờ nằm ở dãy núi Cánh Diều dưới chân núi Minh Tự, xã Sơn Trung. Ngôi mộ nằm ở độ dốc 30 o , đầu hướng lên đỉnh cao nhất của dãy núi Minh Tự, chân mộ chiếu thẳng vào đỉnh cao của dãy Trường Sơn. Đứng trên đỉnh núi nhìn xuống toàn cảnh nơi đây như một bức tranh thuỷ mặc, bên phải có khe Nước Cắn chảy rì rào, trước mặt có dòng sông Ngàn Phố trong xanh hiền hòa và một vùng đồi núi, làng mạc nên thơ.
(st)

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

Kỳ 3 thiên phóng sự đặc biệt: Sự thật về trận đánh bi tráng K'nack và những chuyện kỳ bí trong hành trình tìm gần 500 hài cốt liệt sĩ ở Tây Nguyên
TRẢ LẠI TÊN CHO CÁC ANH
Cũng trong thời gian ở K’Bang, đoàn công tác đã chia đội ngũ các nhà ngoại cảm ra làm 2 nhóm nhằm mở rộng phạm vi tìm kiếm hài cốt của gần 500 liệt sĩ còn vùi sâu đâu đó khắp K’Nak. Nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy làm một nhóm. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, đại tá Hàn Thuỵ Vũ, nhà giáo Đoàn Thanh Hương (thư ký Đoàn) làm một nhóm khác cùng đông đảo các nhân chứng. Và kỳ diệu như trong chuyện cổ tích, các nhà ngoại cảm với khả năng đặc biệt siêu phàm như thấu thị, đối thoại (nhìn thấy và trò chuyện với các vong hồn) đã nhanh chóng tìm thấy các hố chôn tập thể hài cốt liệt sĩ giữa mênh mông đồng bãi, ngút ngàn cỏ lau, điệp trùng suối, núi…, hơn thế, còn xác định được danh tính của từng người, điều mà với những con mắt trần thường tình của người đời là điều không thể.
Ở hố chôn thứ nhất, dọc con suối Đắc-lốp, trong lùm cây rậm rạp, dưới gò mối lớn tìm được 22 liệt sĩ. Qua Bích Hằng, các liệt sĩ cho biết: đây là hố chôn tập thể. Phần nửa phía tây, gần căn cứ K’Nak, bị địch chất đống đổ xăng đốt nhưng mùi da thịt cháy khét lẹt bốc lên đồi khiến chúng không chịu nổi nên nửa hố phía đông, chúng dùng máy xúc đào đất lấp vùi. Bích Hằng lấy được tên tuổi, địa chỉ quê quán của cả 22 người. Điều đặc biệt là sau này, khi đối chiếu những tên tuổi này với danh sách các liệt sĩ ở Trung đoàn 95A và Tiểu đoàn đặc công 409 thì trùng khít.
Ở hố chôn thứ 2, bên dãy cây bạch đàn có gò mối lớn, cách hố thứ nhất khoảng 100m, tìm được tên 12 liệt sĩ.
8h sáng ngày 1 tháng 4 năm 2002, Đoàn lên đồi thông K’Nak để xác minh một ngôi mộ vô danh. Đây chính là cứ điểm phía Bắc của cụm cứ điểm biệt kích K’Nak. Nhà ngoại cảm Bích Hằng thắp hương mời vong liệt sĩ lên trò chuyện. Liệt sĩ cho biết tên là Nguyễn Văn Minh, chính trị viên Đại đội 40, Tiểu đoàn đặc công 409, quê ở Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Nhân chứng tại chỗ, anh hùng lực lượng vũ trang, trung tá Nguyễn Ngọc Bình, nguyên Đại đội trưởng đại đội đặc công 40 (D409) xác nhận: thông tin trên hoàn toàn chính xác. Ông kể: khi quả pháo nổ trước mặt, anh Minh ngã vật xuống, anh Lê Xuân Hổ văng ra, đồng chí liên lạc hy sinh tại chỗ còn ông thì bị thương gẫy tay phải.
Liệt sĩ Minh hỏi Trung tá Bình (qua nhà ngoại cảm): “Anh Lê Xuân Hổ thế nào?”. Trung tá Bình, tay chắp trước ngực, mắt nhìn vào làn khói hương nghi ngút trên mộ đồng đội, trả lời, giọng run run: “Anh Lê Xuân Hổ lên giúp Tây Nguyên. Năm 1972, chuyển đơn vị về Chu Lai, làm trung đoàn phó chiến đấu ở Tuyên Phước. Trong lúc đi điều tra, anh ấy đã hy sinh”. Liệt sĩ Minh: “Anh Trần Tấn Ước (tiểu đoàn phó tiểu đoàn 409 – tác giả) có khoẻ không? Tôi rất xúc động khi gặp các anh. Tuy nằm ở trên đồi này mát mẻ nhưng tôi không thích vì gần đồn địch. Tôi muốn về quê. Bố tôi là Nguyễn Văn Tỉnh ở Thạch Khê, Hà Tĩnh nhưng đã mất. Còn em là Nguyễn Văn Tiến nhà nghèo, không đủ khả năng đưa tôi về. Trước mắt cho tôi về nghĩa trang liệt sĩ với anh em. Chân phải tôi bị gãy. Tôi nằm trong một khe đá nhỏ, không có người chôn. Giỗ tôi ngày 8 tháng 3”.
Người tìm thấy hài cốt liệt sĩ Minh là anh Giang Xuân Lâm, 40 tuổi, quê ở Thái Bình. Ngày 18 tháng 10 năm 1992 (Âm lịch), trong khi đào phế liệu, anh Lâm phát hiện cạnh tấm tôn có xương hàm nên bới cẩn thận, lật lên thấy hài cốt. Xương dài, cao. Xương chân bên trái còn có băng cuốn. Gia đình anh đã di chuyển mộ 2 lần. Năm 1995, đưa về an táng trên đồi thông.
9h30’ cùng ngày, đoàn khảo sát một số khu vực dọc suối, thuộc phía đông đồn cũ của địch, Bích Hằng phát hiện dưới vườn khoai lang của dân có 5 liệt sĩ. Do có nhóm công binh đi cùng, đoàn cho khai quật một hố nhỏ, rộng 0,60m, dài 1,2m, sâu 0,60 m thì tìm thấy một chiếc răng và mảnh xương. Sợ không đủ sức nên đoàn không dám đào thêm.
Sát mép suối, dưới gốc cây sung, Thẩm Thúy Hoàn đọc được tên 5 liệt sĩ. Liệt sĩ Việt bảo: “Cảm ơn đoàn đã bỏ nhiều công sức đi tìm chúng tôi. Cảm ơn anh em đồng đội đã đến đây. Tại sao khi chúng tôi đi có họ tên mà bây giờ vô danh không ai biết tới”. Thấy chị Đoàn Thanh Hương ngồi ghi chép tên tuổi, quê quán các liệt sĩ, liệt sĩ Việt nhắc: “Chị ghi nhầm quê của tôi rồi”.
Cuộc tìm kiếm kết thúc vào ngày 2 tháng 4 năm 2002. Đoàn đã xác định được 10 hố chôn với 128 liệt sĩ trong tổng số gần 500 người hy sinh tại K’Nak. Có danh sách cụ thể và đã đối chiếu với đơn vị. Các nhân chứng từng là cán bộ chỉ huy xác nhận là phù hợp với thực tế.
Lại một mùa mưa rừng qua đi. Giữa lúc lòng anh Mẫn nóng ran như người ngồi trên đống lửa vì hài cốt của người anh và đồng đội vẫn chìm dưới hồ nước bạc thì bất ngờ anh nhận được tin nhắn từ K’Nak: Hồ chứa nước trên dòng suối Đắc-lốp đã cạn. Anh Mẫn mừng rơn như người bộ hành trên sa mạc trong cơn khát cháy bỗng gặp nguồn nước mát. Anh tức tốc báo cáo với Ban chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý, đề nghị cử nhà ngoại cảm vào giúp đỡ khai quật ngay. Anh Mẫn kể lại: “Trước hôm trở lại K’Bang, tôi phải tổ chức buổi họp mặt gia đình gấp. Không hiểu sao, suốt 30 năm vượt thác băng rừng tìm anh, biết bao hiểm nguy rình rập, tôi không sợ. Vậy mà đêm ấy, lòng cứ thấp thỏm không yên. Tôi thông báo với gia đình toàn bộ việc làm của mình cùng toàn bộ hồ sơ, tài liệu, phòng khi gặp chuyện chẳng lành, con cháu có thể thay tôi tiếp tục hành trình tìm kiếm. Nửa đêm, tôi dậy thắp hương cho anh Thành, thầm cầu nguyện vong linh anh sống khôn chết thiêng phù hộ cho tôi chân cứng đá mềm để tìm thấy anh. Và lạ kỳ thay, bát hương trên bàn thờ anh bốc cháy. Tôi hiểu, ở nơi rừng rú heo hút ấy, anh đã nghe được lời nguyện cầu của tôi”.
Sáng 27 tháng 7 năm 2002, nhà ngoại cảm Thẩm Thuý Hoàn (Bích Hằng có việc tại Liên bang Nga nên vắng mặt) cùng bộ phận tìm kiếm vào đến suối Đắc-lốp. Nhưng đập chứa vẫn còn mênh mông nước. Bằng chính tấm tình tha thiết với các liệt sĩ, anh Mẫn đã thuyết phục được chính quyền và nhân dân huyện K’Bang làm một việc “động trời”: tháo đập nước Đắc-lốp. Sau nhiều ngày ăn trực nằm chờ, đập cạn trơ đáy. Lòng vừa khấp khởi mừng thì bất ngờ cơn mưa rừng ập đến. Mưa như trút nước. Mưa sầm sập từ ngày qua đêm. Đập nước lại đầy. Cả đoàn ngồi khóc. Anh Mẫn một lần nữa lại phải cầu xin những người giữ đập xả nước. Lần này, đích thân anh lặn xuống vực nước sâu hơn 4m ùng ục réo để nâng từng tấm gỗ chắn lên. Mọi người ngồi trên bờ sợ thót tim. Chỉ sơ sểnh một tý, cái xác thân vạm vỡ của anh sẽ bị dòng nước cuồn cuộn gào thét cuốn phăng. Nhưng cuối cùng, sức người, nói đúng hơn, lòng người đã thắng. Vài ngày sau, nước rút cạn.
Việc xác định các mốc: gốc cây lớn đã cưa cụt, đường xuống suối cũ, sườn đồi liên quan tới khu vực trạm trung phẫu đều khớp với những dự báo của Bích Hằng từ đợt trước. Về vị trí mộ cũng đã được xác định và cắm cọc từ đợt đó. Vậy mà 4 ngày đào bới cật lực vẫn không thấy dấu vết gì. Mọi người trong đoàn đều hoang mang. Anh Mẫn cũng nản lòng.
Đầu giờ chiều, vừa ăn cơm trưa xong, đoàn đang chuẩn bị đào bới một lần nữa thì mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến. Cả khu rừng tối sầm. Bầu trời đen kịt. Anh Mẫn quỳ sụp xuống lạy bốn phương, vừa lạy, vừa khóc. Lần đầu tiên anh khấn trách: “Cháu vào đây làm những việc chưa ai từng làm để tìm anh cháu và các chú, các bác. Vậy mà các bác không thương cháu. Lần này cháu lại phải về không rồi”. Đang tuyệt vọng than vãn như vậy thì bất ngờ, một tiếng reo to như thức tỉnh cả núi rừng: “Chú Mẫn ơi! Tìm thấy rồi”. Người cất tiếng reo vui ấy là Quang, một tân binh vừa tròn 20 tuổi. Cả đoàn hăm hở đào liên tục trong hai tiếng đồng hồ. Và đây rồi, các anh đã hiện ra. 8 bộ hài cốt nằm thành hai hàng, cách nhau 0,5m đều tăm tắp. Tiếng khóc xen lẫn tiếng cười cứ hoang hoải buông trong buổi chiều tàn giữa rừng sâu thăm thẳm.
Khi đoàn làm lễ đưa các liệt sĩ lên xe về huyện đội K’Bang, trời giăng mưa trắng xoá. Thế là, sau 37 năm nằm lạnh lẽo dưới lòng nước bạc, không một nén hương tàn, không một lời thăm viếng, các anh lại trở về trong vòng tay đồng đội, trong niềm xúc động nghẹn ngào của người thân, gia đình.
KỲ 4: NƯỚC MẮT MẸ GIÀ 37 NĂM VÒ VÕ NGÓNG CHỜ. NHẦM LẪN HY HỮU VÀ NHỮNG CHUYỆN KỲ LẠ
(Phóng sự của nhà báo Hoàng Anh Sướng)
Kỳ 2 thiên phóng sự đăc biệt: Sự thật về trận đánh bi tráng K'nack và những chuyện kỳ bí trong hành trình tìm gần 500 hài cốt liệt sĩ ở Tây Nguyên
TRÒ CHUYỆN VỚI ... VONG LINH LIẾT SĨ
Cuộc “gặp gỡ” kỳ lạ đượm chất… “liêu trai” giữa nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, Phạm Văn Thành đã diễn ra vào hồi 16h ngày 26 tháng 3 năm 2002 tại căn phòng nhỏ của chị ở khu tập thể Kim Liên, Hà Nội. Tham gia cuộc gặp gỡ có thiếu tướng Chu Phác, nguyên chủ nhiệm bộ môn cận tâm lý, thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, Đại tá Hàn Thụy Vũ và anh Phạm Văn Mẫn. Trong không khí tĩnh lặng, thiêng liêng phảng phất hương trầm, trước di ảnh của hai liệt sĩ, nhà ngoại cảm tay chắp trước ngực thành kính, giọng đầy xúc động: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Phạm Văn Thành! Hôm nay là ngày 26 tháng 3 năm 2002, cháu Phan Thị Bích Hằng cùng anh Phạm Văn Mẫn là em của liệt sĩ Phạm Văn Thành, Thiếu tướng Chu Phác, Đại tá Hàn Thuỵ Vũ muốn được mời bác và anh Thành về. Xin hỏi bác những thông tin có liên quan đến trận đánh căn cứ biệt kích K’Nak và đặc biệt là nơi mai táng cũng như tình trạng hiện nay của các liệt sĩ tại K’Bang”. Ngừng lời như kìm nén niềm xúc động, mắt vẫn dõi nhìn vào tấm ảnh đã ố vàng của liệt sĩ Đãi, chị đằng hắng giọng rồi nói tiếp, giọng run run: “Thưa bác Đãi! Nhiều năm qua, anh Mẫn đã bỏ ra rất nhiều công sức, tiền của để đi tìm mộ anh Thành tại khu rừng mà mọi người chỉ dẫn là nơi đặt trạm trung phẫu 37 năm về trước mà không đạt kết quả. Hôm nay, xin phép bác và anh Thành cho anh Mẫn được thưa chuyện. Mong được hai người chỉ dẫn”.
Anh Mẫn: “Thưa bác Ngô Trọng Đãi và anh Thành! Nhiều năm qua, đã mấy chục lần cháu đi tìm anh cháu và các bác ở K’Bang. Lần gần đây nhất là tháng 12 năm 2001. Mặc dầu đã được các nhân chứng chỉ chỗ chôn cất các bác, cháu đã khai quật nhiều lần mà vẫn không thấy. Lần này, trời run rủi cho cháu được gặp nhiều đồng đội cũ của Bác, những người trực tiếp chỉ huy trận đánh, trực tiếp chiến đấu và mai táng như bác Nguyễn Văn Ẩm, bác Trần Duy Trung, bác Nguyễn Trọng Bình, Châu Khải Địch, Nguyễn Văn Cán, Nguyễn Minh Sang, Trần Tấn Ước… Đặc biệt chuyến đi tới còn có Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh cùng nhiều thành viên khác. Cháu mong bác và anh linh thiêng hướng dẫn thêm để chuyến đi này đạt kết quả như mong muốn”.
Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, sau một hồi chăm chú nhìn bức ảnh liệt sĩ Đãi và lắng nghe, miệng “dạ, vâng” liên tục như thể hai người trần đang trò chuyện với nhau, đã quay sang anh Mẫn để truyền đạt lại lời của liệt sĩ (từ đây xin ghi là liệt sĩ Đãi – tác giả). “Tôi không nỡ bỏ anh em ở lại núi rừng để về quê hương dù rất thương em trai tôi. Cả Thành cũng vậy, dù rất thương cậu xong cũng không thể về một mình mà để lại đồng đội đâu Mẫn ạ. Lần nào cậu vào đào bới chúng tôi đều biết hết. Sự hiện diện của cậu ở K’Bang bao nhiêu năm nay ở núi rừng K’Bang là nguồn động viên an ủi vô cùng lớn đối với linh hồn các liệt sĩ. Như vậy là vẫn có người nhớ đến chúng tôi. Chúng tôi vẫn còn có cơ hội về quê. Nhưng cậu chỉ đi tìm anh cậu còn để bỏ mặc đồng đội của tôi, của anh cậu thì làm sao tìm được”. Anh Mẫn: “Thưa bác, những lần đi tìm trước, cháu có đào đúng chỗ các bác nằm không ạ?” Liệt sĩ Đãi: “Toạ độ cậu xác định là đúng nhưng địa điểm cụ thể thì chưa. Phải lùi về phía con suối nữa, nơi có nhiều cây song le gần sát nước. Trước đây chỗ mai táng chỉ cách suối khoảng 25m thôi. Đấy là lúc suối cạn. Còn bây giờ suối đã ngập nhiều rồi. Chỗ hồ nước mênh mông ấy, hài cốt chúng mình ở dưới ấy. Cậu có đủ can đảm lặn xuống đáy không?” Anh Mẫn: “Thưa bác, như vậy có nghĩa là các bác nằm ở dưới con suối ạ? Vì ở đó bây giờ là đập thuỷ điện”. Liệt sĩ Đãi: “Cũng gần như vậy. Duy chỉ có một điều tôi không muốn nói ra vì nếu nói, sẽ chẳng ai vào đây với chúng tôi nữa. Thôi, dù sao cũng cố gắng vào với chúng tôi đi. Tôi muốn gặp lại những đồng đội cũ của tôi còn may mắn sống sót sau trận đánh ấy và cũng để cho họ được một lần trở lại chiến trường xưa”. Anh Mẫn: “Vậy có cách nào để xả con suối đó không ạ?” Liệt sĩ Đãi: “Thế tôi mới hỏi cậu”. Anh Mẫn: “Bác Đãi ơi! Bác hãy giúp cháu. Cháu sẽ xin xả đập nước. Nhưng nếu chính quyền họ bắt cháu thì sao. Xin bác và các liệt sĩ giúp cháu”. Liệt sĩ Đãi: “Cậu làm vì việc nghĩa thì không ai dám hại cậu đâu, miễn là hợp lý, hợp tình. Nhưng có một điều tôi muốn nói với cậu. Tôi sợ cậu lực bất tòng tâm. Tìm các liệt sĩ còn muôn vàn gian khó đấy. Nhiệt tình không chưa đủ. À, mà cậu đã qua Vĩnh Thạnh bao giờ chưa?” Anh Mẫn ngạc nhiên hỏi: “Thưa bác, sao lại phải qua Vĩnh Thạnh xa xôi thế ạ?”. Liệt sĩ Đãi: “Cậu dốt lắm. Không qua Vĩnh Thạnh thì chuyến đi của cậu còn có ý nghĩa gì. Kiểu gì cũng phải qua đó thắp hương. Các liệt sĩ quê ở đó nhiều lắm và còn nhiều lý do khác nữa, sau này mới hiểu”.
Anh Mẫn còn đang vân vi về lời dặn của liệt sĩ Đãi thì vong linh của liệt sĩ Thành về, nói qua nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: “Anh không biết nói gì thêm với em cả, chỉ mong sớm được cùng em về với quê hương, cha mẹ. Khi đi em nhớ thắp hương xin phép tổ tiên để các cụ phù hộ cho em nhé. Nhà mình còn một ông chú chết trẻ nữa đấy. Chú trách là không bao giờ nói gì đến chú cả. Lần này em phải nhớ. Anh và bác Đãi sẽ phù hộ cho em”.
Chị Hằng tay vẫn chắp trước ngực, nói: “Thưa bác Đãi! Thưa anh Thành. Lần này, anh Mẫn tổ chức đoàn đi tìm kiếm các liệt sĩ tương đối quy mô. Có sự tham gia của nhiều nhân chứng, sự giúp đỡ của quân khu 5, của địa phương tỉnh Gia Lai và các nhà ngoại cảm thuộc Bộ môn cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Thành phần này rất đầy đủ và chuẩn bị rất công phu. Cháu mong các bác hãy phù hộ giúp đỡ cho đoàn đi tìm kiếm đợt này đạt được như ý muốn. Cháu cảm ơn bác Đãi, anh Thành và cảm ơn các liệt sĩ”.
Cuộc nói chuyện kết thúc vào hồi 17h nhưng mọi người còn bịn rịn chưa muốn về. Ai cũng băn khoăn trước những câu nói khó hiểu của liệt sĩ Đãi: “Nếu tôi nói ra sẽ chẳng ai vào đây nữa”. “Nếu không đi Vĩnh Thạnh, chuyến đi của cậu sẽ chẳng còn ý nghĩa gì” và “Cậu có đủ can đảm mò xuống dưới suối không?”. Có gì ẩn chứa trong những lời nói ấy? Câu trả lời vẫn còn ở phía trước, tận núi rừng Tây Nguyên xa xôi, hùng vĩ khiến tất cả mọi người cứ khắc khoải như chính linh hồn các liệt sĩ đã từng khắc khoải đợi chờ suốt 37 năm dằng dặc.
NƯỚC MẮT GIỮA RỪNG SÂU
Ngày 27 tháng 3 năm 2002, đoàn xuất phát từ Hà Nội. Trên đường đến K’Nak, đoàn rẽ vào Nghệ An, Đà Nẵng đón thêm một số nhân chứng, trong đó có bác Ngô Trọng Quang là em ruột của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tổng cộng khoảng hơn 40 người, do Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh làm trưởng đoàn. Ba ngày sau, tại núi rừng K’Bang âm u, trùng điệp, tại chính mảnh đất đã thấm đẫm máu của ngót 500 chiến sĩ đặc công anh hùng, những người lính đã một thời vào sinh ra tử trong trận đánh khốc liệt K’Nak, sau 37 năm trời đằng đẵng, nay tóc bạc da mồi, bồi hồi xúc động kể lại kỷ niệm xưa. Nước mắt lăn dài, khói hương nghi ngút, những tiếng nấc nghẹn ngào cứ bật ra. Trung tá Nguyễn Văn Cán, 70 tuổi, sụt sùi kể: “Lúc đó trận đánh rát quá, quân ta thương vong quá nhiều nên tôi phải liên lạc và báo cáo cấp trên bằng bộ đàm. Đang báo cáo thì anh Ngô Trọng Đãi giật lấy máy từ tay tôi để xin ý kiến chỉ đạo. Đúng lúc đó, một quả pháo cối của địch bắn trúng anh. Bụng anh bị vỡ, máu chảy ồ ạt, ruột gan tòi hết cả ra ngoài. Tôi phải xé quần áo buộc chặt. Dân quân hoả tuyến vội vàng đưa anh về trạm trung phẫu cấp cứu nhưng không kịp. Đau xót và thương lắm các đồng chí ạ!”. Nói đoạn, trung tá Cán bật khóc nức nở như thể đang đứng trước trận chiến năm nào, đầy xác và máu đồng đội.
Trung tá Nguyễn Văn Ẩm, 74 tuổi, nhân vật trung tâm của chuyến đi vì ông là người trực tiếp chôn cất liệt sĩ Đãi, Thành và 6 đồng chí khác nhớ lại: “Tôi đào sẵn 50 hố. Mặc dù số lượng hy sinh quá nhiều so với dự kiến nhưng cuối cùng cũng chỉ đưa về mai táng được 8 đồng chí thôi. Sợ địch phát hiện nên chôn cất xong chúng tôi phải san phẳng ngay. Kể lại thì xót xa lắm. Lúc đó vì khó khăn nên mai táng các đồng chí ấy chẳng có quan tài, áo mưa hay tăng võng gì sất. Chỉ vỏn vẹn có 4m vải xô trắng quấn qua loa. Nếu tìm thấy bây giờ thì xương cốt chắc cũng chẳng còn gì nữa”.
Trung tá Nguyễn Minh Sang, người trực tiếp tham gia trận đánh, sau này đã từng bám trụ chống lại bọn lâm tặc phá rừng, nơi đồng đội của bác đã đổ xương máu, hiện đang sống tại K’Bang thì vừa khóc tu tu, vừa nói: “Phải tìm bằng được các liệt sĩ rồi sau này có chết đi cũng không có gì phải áy náy. Chừng nào chưa tìm được các anh thì rừng này vẫn phải giữ nguyên không ai được chặt phá. Trong khi chúng ta còn sống thì bằng mọi cách, phải đưa các anh trở về với quê cha đất mẹ”.
BÍ MẬT DƯỚI HỒ ĐẮC-LỐP
13h ngày 30 tháng 3 năm 2002, bắt đầu cuộc tìm kiếm hài cốt 8 liệt sĩ tại khu vực trạm trung phẫu. Trung tá Nguyễn Văn Ẩm, do tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút, cộng với địa hình thay đổi quá nhiều qua 37 năm mưa nắng nên không thể nhớ được chính xác vị trí trạm trung phẫu cũng như nơi chôn cất 8 liệt sĩ. Cả ba nhà ngoại cảm là Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy và Thẩm Thuý Hoàn thì đều kêu ở đây nhiễu quá, mất hết thông tin, không ai gặp được vong. Lực lượng bộ đội và dân quân đào một số đoạn hào nhưng không phát hiện được dấu vết gì. Một số dân địa phương, người Ba Na lớn tuổi, chỉ một số điểm khác cũng không trúng.
Các nhà ngoại cảm đều cố gắng cầu khấn xin gặp vong người chỉ huy cao nhất là liệt sĩ Ngô Trọng Đãi. Đến 21h ngày 30 tháng 3 năm 2002, tại nhà nghỉ, Thẩm Thuý Hoàn gặp được vong liệt sĩ Ngô Trọng Đãi. Liệt sĩ dặn: “Triển khai xuống phía dưới con suối, không nên đào quá lên trên. Hôm nay đã hất một phần, ngày mai chịu khó bới lại một chút. Từ chỗ đào hôm nay hơi chéo xuống. Vì hài cốt của chúng tôi không còn nhiều nên khi đào phải chú ý thận trọng một chút. Ngày mai tìm được các liệt sĩ khác rồi mới tìm được tôi và anh Thành. Nếu không, các anh em còn lại sẽ không có ai tìm nữa”.
Cùng thời gian đó, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cũng được “yết kiến” vong liệt sĩ Đãi. Chị nói thêm: “Người bác rất cần gặp trong ngày hôm nay vì bác đã xanh cỏ để cho họ đỏ ngực thì không đến để nói một lời chia sẻ với các anh em ở đây. Bác Ẩm là đồng đội cũ nhưng không nói thay được. Khi nghe tin đoàn vào, anh em liệt sĩ ở đây rất mừng, ra đón rất đông. Nhưng các vị tướng lại không nói một lời. Sát mép gần bờ suối còn nhiều anh em. Cháu yên tâm không đi nhầm khu vực. Bác sẽ hiệp đồng với cháu”. Hình ảnh của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi xuất hiện mờ ảo, rất nhanh nhưng cả hai nhà ngoại cảm đều thu được trùng khớp thời gian và nét mặt.
Chiều hôm sau, đoàn tìm kiếm quay trở lại rừng. 13h, cùng một lúc, chị Hằng và Hoàn đều reo lên: “Bác Đãi về kìa”. Việc tìm kiếm khu mộ bắt đầu chuyển hướng về phía chân đồi, nơi dòng suối Đắc-lốp. Cả đoàn túm vào phát quang hơn 100m rừng le rậm rạp, mở đường xuống suối. Các nhà ngoại cảm và trung tá Nguyễn Văn Ẩm cùng chung một ý nghĩ: Dòng suối cạn khi xưa nay đã thành hồ nước rộng gần 100m2 do chính quyền huyện K’Bang ngăn nước tạo đập làm thuỷ điện. Và kia rồi, một gốc cây cổ thụ bị cưa ngang nổi lập lờ mặt nước. Bằng khả năng đặc biệt, nhà ngoại cảm Bích Hằng đã xác định được vị trí của 8 liệt sĩ đang nằm dưới lòng suối, rồi cho người cắm cọc theo các trật tự như sau: Liệt sĩ Đãi, Tất, Được, Tuyển, Hưởng, Bình, Thành và Công. Liệt sĩ Đãi là tiểu đoàn trưởng, người chỉ huy cao nhất nên được an táng đầu tiên. Người được an táng cuối cùng là liệt sĩ Công, trẻ nhất.
Bích Hằng thắp hương tại vị trí đang khai quật để nói chuyện với các liệt sĩ. Liệt sĩ Đãi yêu cầu gặp bác Lại (em trai). Liệt sĩ nói (qua Bích Hằng): “Em mới vào đây thì biết gì đâu. Không đào chỗ này nữa. Cô Lệ dạo này ra sao?”. Bác Lại đáp: “Cô Lệ đã lấy chồng là thương binh anh ạ”. Liệt sĩ Đãi: “Trước đây, anh có người yêu tên Lý, quê ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, làm giáo viên, quen nhau ở lớp học bình dân. Cô ấy đã tình nguyện quan hệ với anh một lần. Lúc đó, hai đứa có bàn với nhau: Nếu con gái đặt tên là Hoài, con trai đặt tên là Nhơn. Nhưng trong túi anh lúc nào cũng có ảnh của cô Lệ ở quê mình đã dạm hỏi ý. Rất tiếc là lúc chôn anh, bác Ẩm đã không chôn bức ảnh cùng. Giỗ anh vào ngày mồng 7 tháng 3 chứ không phải mồng 8. Làm lệch ngày, anh về, không có nén hương, anh tủi thân. Vị trí các anh em liệt sĩ ở đây là: Đãi, Tất, Được, Tuyển, Hưởng, Bình, Thành, Công. Nếu anh Chương (đồng chí Nguyễn Huy Chương, nguyên chính trị viên trưởng tiểu đoàn, người quyết định trận đánh – tác giả) mà có trách nhiệm đến thăm anh em ngay từ khi hoà bình lập lại thì có biết bao nhiêu anh em đi theo ủng hộ, chứ phải đâu như bây giờ. Nơi này tắm máu anh em xong để đấy. Y cụ, xong nồi, chảo vẫn ở dưới suối”. Liệt sĩ Thành nói chen vào: “Lúc nãy bác Đãi thấy bác Lại cứ đi vòng quanh mãi nên bác Đãi thương quá mà về gặp. Mẫn ơi! Chỉ cần em vào đây thắp hương là đủ rồi. Để cho anh ở lại đây. Không phải anh không muốn về. Anh cũng nhớ mẹ lắm chứ nhưng sợ em lực bất tòng tâm vì anh đang nằm ở dưới làn nước sâu. Chị Thường nản rồi không vào thăm anh nữa à? Chị ấy là phụ nữ, đi lại vất vả thế, chắc không chịu được. Có thằng Hải, thằng Đông vào đây là anh vui rồi. Hải nó lớt phớt, không tin là tìm được anh. Anh chỉ còn rất ít”. Liệt sĩ Đãi nói tiếp: “Khẩu súng lục anh đeo, lúc vào trạm trung phẫu, vì ruột cứ lòi ra nên đã tháo ra để quấn băng. Anh chỉ ú ớ được mấy tiếng rồi không biết gì. Cô Lý rất yêu anh nhưng nhà đã dạm hỏi coi như anh có vợ. Muốn gửi lời xin lỗi cô Lệ đã để cô ấy chờ lâu quá. Em mang về dù một nắm đất cũng nhắn Lệ đến thăm anh”.
Bích Hằng: “Thưa bác Đãi, cháu xin phép được thỉnh cầu bác lần nữa. Mong bác cho biết, toạ độ chúng cháu cắm cọc kia đã đúng chưa ạ? Bác có thể chỉ dẫn để chúng cháu cắm lại. Và bác Lại có đôi lời muốn thưa chuyện với bác”. Liệt sĩ Đãi: “Đây là cọc đầu tiên và 6 cọc tiếp theo. Nhưng không phải chỗ này, đi tiếp cắm lại. Được rồi. Bắt đầu từ đấy kéo dài thẳng đến gốc cây. Đây là cây đa che chở cho trạm trung phẫu”. Bác Ngô Trọng Lại, chắp tay vái lia lịa, miệng mếu máo: “Anh ơi! Nếu đúng mảnh đất này là nơi lưu giữ xương thịt anh thì anh cho phép tất các các gia đình thân nhân liệt sĩ ở đây đem nắm đất này về. Mong anh trao đổi với các anh em và cho biết ý kiến. Điều kiện em rất khó khăn, tuổi cao, sức yếu, khả năng tài chính eo hẹp. Anh nên về nghĩa trang liệt sĩ Hoà Vang hoặc đài liệt sĩ xã Hoà Thọ quê mình yên nghỉ”. Liệt sĩ Đãi: “Thật ra trong lòng anh đã nghĩ đến điều đó. Dù sao nơi này cũng có xương máu của anh và đồng đội. Với tình cảm của em và mọi người dành cho anh thì dù chỉ là một nắm đất cũng đầy đủ ý nghĩa rồi. Hồi xưa đi hoạt động, anh vẫn thường bảo với em là: Anh hùng xá kể chi thân xác. Mạng sống của mình còn chẳng tiếc, huống hồ một nắm xương tàn. Thôi thì sinh thổ hoá thổ. Sinh ra từ đất rồi lại trở về với đất. Với anh em ở đây, về mặt chỉ huy anh có thể nói được. Nhưng tình cảm cá nhân thì mỗi người một ý, anh không thể quyết định thay được. Riêng anh, anh đồng ý theo em về. Em mỗi tuổi mỗi yếu, đi lại nhiều, thương lắm. Quê mình là Hoà Nhơn sao bây giờ là Hoà Thọ. Dù về nghĩa trang xã hay huyện đều được còn như thế này coi như anh được thuỷ táng dưới lòng suối với anh em. Cậu Tuyển, Được cũng sẵn sàng về. Còn các anh em khác đang lưỡng lự. Em có thể bốc một nắm đất sát bờ suối. Còn vị trí vừa cắm cọc là có anh nằm ở dưới. Em cứ bốc một nắm đất lên rồi khấn: Ba hồn bảy vía anh Ngô Trọng Đãi ở đâu thì theo em về quê. Em bốc bảy lần và nói như vậy. Mỗi lần cắm một nén hương. Em chắp tay xin thần rừng, thần sông, thần suối phù hộ cho linh hồn anh được về quê. Anh không muốn về trong ngậm ngùi mà muốn có lá cờ Tổ quốc phủ lên phần đất, dù là tượng trưng, để phủ lên cho anh”.
Bác Lại vâng lời, làm đúng lời anh dặn. Vừa bốc đất, vừa khấn, vừa khóc. Tiếng khóc nấc đớn đau chất chứa cả một đời cứ lan trong chiều tím nghe vừa ai oán, vừa xót xa. Cả đoàn không ai kìm được nước mắt. Còn anh Mẫn, lặn ngụp dưới lòng hồ suốt từ chiều đến giờ nhưng vì hồ rộng, nước sâu nên đành chịu. Nước hồ chỗn lẫn nước mắt ướt đầm. Thương anh đứt ruột nhưng đành phải gạt nước mắt tạ từ chờ đến mùa khô nước cạn.
Kỳ 3: TRẢ LẠI TÊN CHO CÁC ANH
(Phóng sự của nhà báo Hoàng Anh Sướng)
SỰ THẬT VỀ TRẬN ĐÁNH BI TRÁNG K'NACK VÀ NHỮNG CHUYỆN KỲ BÍ TRONG HÀNH TRÌNH TÌM GẦN 500 HÀI CỐT LIỆT SĨ Ở TÂY NGUYÊN
Cuối cùng, chúng tôi cũng có mặt ở K’Nác, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai sau hành trình ngót 2 ngày đêm vượt 1.500 cây số bằng ô tô từ Hà Nội. Tây Nguyên vào tiết thu đẹp nao lòng. Trời ngằn ngặt xanh, mây trắng lốp, nắng vàng rượi, gió mơn man. Xa xa, dòng suối Đắc- lốp, nơi hơn 41 năm trước đã nhuốm đỏ máu liệt sĩ vẫn rì rầm chảy giữa cỏ lau ngút ngàn. Ngọn đồi trước mặt, nơi căn cứ biệt kích của địch chiếm đóng xưa, nay là toà nhà 4 tầng khang trang, trụ sở của lâm trường Kông- Hà - Nừng. Dưới chân đồi, nơi từng diễn ra trận đánh khốc liệt, gần 500 chiến sĩ đã vùi xác, giờ chỗ là ao hồ, chỗ là nhà cửa, chuồng trại. Chao ôi cái sự xoá nhoà khắc nghiệt của thời gian!
Đang miên man nghĩ, bất giác, tôi chợt rùng mình khi nghe nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, người đang chắp tay trước bàn thờ thực hiện cuộc trò chuyện với các vong liệt sĩ từ sáng, quay sang chúng tôi nói, giọng nghèn nghẹn: “Liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc công 409, quân khu 5 khóc ghê quá. Chú ấy bảo: Ngót 40 năm, lâu quá rồi, thời gian đủ để xoá nhoà tất cả, kể cả chúng tôi, những người đã hy sinh vùi xác thân vĩnh viễn nơi này. Chỉ có các bạn là những người còn nhớ đến để đi tìm. Còn những người chúng tôi nằm xuống xanh cỏ để cho họ đỏ ngực, để được thăng quan tiến chức thì có bao giờ họ nghĩ đến chúng tôi đâu. Giá như họ nhớ đến chúng tôi chỉ một chút thôi và sớm hơn một chút thôi thì giờ đây, đâu đến nỗi các bạn phải khổ sở và nhất là chúng tôi, mấy trăm con người phải vùi thịt xương nơi rừng xanh núi đỏ, không một nén hương tàn. Tôi không nỡ bỏ anh em ở lại núi rừng để mà về quê dù rất thương em trai tôi. Các em ở đây chúng còn trẻ quá. Hầu hết mới 18 - 19 tuổi đầu. Tôi phải đưa bằng được họ về với quê. Tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn tìm hài cốt của họ”.
KỲ 1: NHỮNG ANH HÙNG NẰM LẠI TRONG TRẬN ĐÁNH K’NACK BI TRÁNG
KHỞI HÀNH GIAN NAN
Nếu không có cuộc hành trình tìm kiếm hài cốt người anh thân yêu của anh Phạm Văn Mẫn - nguyên giám đốc công ty S-fone, thì có lẽ mãi mãi, người đời sẽ chẳng biết gì về trận đánh khốc liệt vào trường biệt kích của địch ở K’Nác năm xưa. Và chắc chắn, thịt xương của ngót 500 chiến sĩ sẽ vĩnh viễn chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy ao chuôm, chuồng trại, nhà cửa… Bởi lẽ, trong hầu hết các trang sử của những đơn vị bộ đội, chẳng có một dòng ghi chép nào nhắc đến trận đánh K’Nác tối ngày mồng 7 rạng sáng ngày 8 tháng 3 năm 1965 buồn thảm ấy. Bộ đội ta hy sinh quá nhiều. Máu của các chiến sĩ đã nhuốm đỏ dòng suối Đắc-lốp. Xác các anh phơi trắng chân đồi. Theo thượng tướng Nguyễn Nam Khánh thì “sở dĩ người ta cố tình quên đi vì sợ bị quy trách nhiệm. Cách hành xử ấy không những có lỗi với các chiến sĩ đã hy sinh mà còn có lỗi với thân nhân các gia đình liệt sĩ vì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho họ trong việc tìm kiếm hài cốt chồng con mình sau này”.
Trở lại câu chuyện đi tìm mộ liệt sĩ của anh Phạm Văn Mẫn. Mẫn có người anh trai tên Phạm Văn Thành, quê ở Xuân Trung, Xuân Trường, Nam Định, lên đường nhập ngũ năm 1964. Năm ấy, cậu bé Mẫn mới tròn 8 tuổi. Lúc lên xe, anh Thành đã dúi vào tay Mẫn nắm cơm, khẩu phần ăn duy nhất của anh trước lúc lên đường. Thương anh, mắt nhoè lệ, lòng quặn đau như kim châm, dao cứa.
Chiến trường ác liệt. Anh đi biền biệt không về. Chẳng một lá thư, một dòng nhắn gửi. Mẹ đỏ mắt ngóng chờ. Năm 1972, tin sét đánh ngang tai. Anh Thành đã hy sinh. Cả nhà chết lặng.
Hoà bình lập lại. Nhớ thương anh, Mẫn quyết chí đi tìm. Nhưng biết tìm ở đâu? Giấy báo tử chỉ vỏn vẹn ghi: “Hy sinh ở mặt trận phía Nam”. Kệ, Mẫn cứ đi. Lúc bắt xe khách, khi cuốc bộ ngược đường Trường Sơn. Cứ thấy nghĩa trang liệt sĩ là anh vào. Lần tìm từng tấm bia trên mộ nhưng cái tên Phạm Văn Thành, quê Nam Định vẫn biệt vô âm tín. Thấm thoắt đã ngót 30 năm. Từ lúc tóc Mẫn còn xanh đến khi điểm bạc mà thông tin về phần mộ người anh vẫn biền biệt phương trời.
Đúng lúc tưởng như vô vọng nhất thì tình cờ anh gặp được đồng chí Trần Văn Thức, đồng đội cũ của anh Thành cùng trực tiếp tham gia trận đánh K’Nak. Anh Thức kể: “Tôi thuộc đơn vị bộ đội chủ lực tham gia hỗ trợ bộ đội Quân khu 5 đánh Trường biệt kích Tây Nguyên. Súng nổ mở màn lúc 23h 30’ thì chừng vài phút sau, tôi bị thương cùng với anh Thành. Nhưng mãi đến sáng mới được đưa ra Trạm xá Trung phẫu, cách K’Nác khoảng 8 -10 km. Tại đây, tôi có nhìn thấy dân công hoả tuyến đưa đồng chí Thành đi mai táng cạnh trạm Trung phẫu. Vị trí chôn cất thì không rõ lắm vì lúc đó tôi bị thương nặng, lúc tỉnh, lúc mê”. Thông tin ấy khiến cho anh Mẫn khấp khởi hy vọng và càng quyết chí đi tìm anh.
Từ đồng chí Thức, anh Mẫn đã gặp gỡ được nhiều nhân chứng vốn từng tham gia trận đánh K’Nak xưa. Gặp đồng chí Trần Duy Trung thuộc Trung đoàn 95 A, sư đoàn 325 bộ đội chủ lực, nay đang ở Xuân Trường, Nam Định. Gặp Trung tá Trần Tấn Ước, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn 409, hiện ở thị trấn Bình Sơn, Bình Định. Gặp trung tá, anh hùng Nguyên Ngọc Bình nguyên là đại đội trưởng đại đội 1 của tiểu đoàn 409, người được phong anh hùng trong trận đánh K’Nak. Gặp trung tá Nguyễn Văn Ẩm, nguyên chính trị viên phó tiểu đoàn, phụ trách việc chôn cất các liệt sĩ cùng một số nhân chứng khác. Cả một trận đánh khốc liệt năm xưa chợt hiện về qua hồi ức của những người một thời vào sinh ra tử ấy.
VÉN BỨC MÀN BÍ MẬT VỀ TRẬN ĐÁNH KHỐC LIỆT K'NACK
Căn cứ biệt kích K’Nak nằm trên 3 quả đồi chạy dọc Bắc Nam, có nhiều lợi thế quân sự. Nơi đây đồi núi lô nhô, thuận lợi cho việc xây dựng phòng thủ và bố trí binh lực, hoả lực, xuất phát tiến công. Lại có nhiều thung lũng sình lầy, có sông Ba và khe suối bao bọc, cản trở khi bị đối phương tiến công. Mỹ nguỵ đã xây dựng ở đây một cụm cứ điểm bao gồm đồn luỹ bảo vệ, sân bay dã chiến và trại pháo nhằm chặn cắt đường giao liên giữa Bình Định và Gia Lai. Quân ta đã nhiều lần tập kích căn cứ này nhưng đều không thành công. Mùa xuân năm 1963, Đảng uỷ, Bộ tư lệnh quân khu 5 và Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định tập trung lực lượng trên quy mô lớn tấn công căn cứ này. Lực lượng ta gấp 3 số lượng địch, gồm: Tiểu đoàn đặc công 409 quân khu 5, một đơn vị đặc công của tỉnh Bình Định, trung đoàn số 10 và Bộ phận chỉ huy tiền phương quân khu 5. Tổng quân số lên tới gần 750 người.
14h ngày 7 tháng 3 năm 1965, bộ đội ta xuất quân từ Kông-Hà-Nừng, cách K’Nak hơn 20 km. 18h, cách suối khô 500m. 19h, bắt đầu tiếp cận. Đến 23h, quân ta đã chiếm lĩnh xong các vị trí quy định. Theo kế hoạch, đặc công mở cửa diệt các vị trí trọng yếu. Sau đó, bộ binh dùng xung lực mạnh giải quyết trận địa. Song do quá trình trinh sát địa hình chuẩn bị trận đánh trước đó một tháng đã để lộ dấu vết nên địch biết trước kế hoạch tấn công của ta. 23h 30’, bộ đội ta vấp phải mìn nổ, mìn sáng. Địch lập tức nổ súng trùm lên toàn bộ đội hình của ta. Pháo sáng chúng bắn sáng rực như ban ngày. Ta tiến công cưỡng hành. Bộ đội ta chiến đấu cực kỳ dũng cảm, đã đánh chiếm được điểm cao phía Bắc và phía Nam nhưng hướng chủ yếu ở giữa chỉ chiếm được “đầu cầu”. Lô cốt cố thủ của địch bắn chặn quyết liệt. Đến 0h 30’ ngày 8 tháng 3, quân ta thương vong gần hết. Xác của các chiến sĩ nằm la liệt trắng cả ven suối và chân đồi K’Nak. Lực lượng còn lại buộc phải rút lui. Địch vẫn bắn truy kích dữ dội. Gần 500 thương binh và tử sĩ của ta không mang theo được. Một phần địch gom lại, đổ xăng đốt. Số còn lại, dùng xe ủi đào từng hố hất các liệt sĩ xuống rồi san phẳng.
Đồng chí Nguyễn Văn Ẩm, chính trị viên phó Tiểu đoàn 409, phụ trách công tác thương binh ở trạm trung phẫu (cách vị trí địch khoảng 8km) cho đào sẵn 50 huyệt mai táng. Mỗi hàng 10 huyệt, cách nhau 60 - 80cm nhưng duy nhất chỉ mai táng được 8 đồng chí, trong đó có tiểu đoàn trưởng Ngô Trọng Đãi và liệt sĩ Phạm Văn Thành. 8 đồng chí này bị thương ngay từ đầu trận đánh nên mới đưa ra được phía sau. Lực lượng cứu thương và dân công hoả tuyến (đều là người dân tộc) cũng hy sinh hết cả nên không còn người cấp cứu và tải thương ra cứ được. Nếu tính cả lực lượng này, hơn 1.000 người đã để lại xương thịt ở trận địa K’Nak.
CUỘC ĐIỆN ĐÀM... HUYỀN HOẶC
Chuyện tìm hài cốt liệt sĩ Phạm Văn Thành giờ tưởng chừng dễ dàng như trong lòng bàn tay. Nhưng khi đưa các nhân chứng vào K’Nak, anh Mẫn đã bật khóc nức nở. Ngót 37 năm trời dằng dặc, cảnh vật thay đổi quá nhiều. Trạm trung phẫu trước kia có 4 cây đa cổ thụ to lắm, che chắn cho trạm xá, nay chỉ còn một cây. Suối Đắc-lốp giờ đã ngăn dòng làm đập thuỷ điện. Đồng đội cũ của anh Thành giờ đều tuổi cao, sức yếu, trí nhớ giảm sút nên việc xác định vị trí ngôi mộ rất khó khăn. Nhiều lần, anh Mẫn phải cầu viện đến các nhà ngoại cảm. 9 nhà ngoại cảm nổi tiếng từ Bắc chí Nam anh đều đã vời vào nhưng không hiểu sao, người ra đến sân bay thì cáo ốm xin về, người bước đến cửa rừng thì kêu: “Khu rừng này thiêng lắm, sợ lắm, không tìm được đâu” rồi hớt hải bỏ về. Có nhà ngoại cảm vừa đào đào bới bới bỗng lăn đùng ra đất, tay ôm chặt đầu lăn lộn, miệng kêu gào: “Ôi! đau đầu quá! Đau quá”. Lần cuối cùng, ngày 26 tháng 12 năm 2001, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy cùng anh Mẫn đi Tây Nguyên. Trước khi đi, nhà ngoại cảm bằng khả năng đặc biệt đã cung cấp những thông tin ban đầu khá chính xác:
- Nơi liệt sĩ Thành nằm còn có 7 người nữa.
- Khu mộ cách con suối từ 20 – 50m, có nhiều bụi rậm, trong đó có một cây cụt.
- Anh Thành nằm hàng thứ 2, ngôi thứ 2 từ phải qua trái. Ngôi đầu, hàng đầu là một người chỉ huy.
Nhưng vào làm việc tại thực địa, nhà ngoại cảm cho khai quật một số điểm đều không thấy. Tranh luận nổ ra. Một số người trong đoàn giảm niềm tin và chán nản. Lúc đó, nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy mới gọi điện thoại di động trao đổi với thiếu tướng Nguyễn Chu Phác – nguyên chủ nhiệm Bộ môn cận tâm lý (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người), rồi chuyển điện thoại cho anh Mẫn trực tiếp nói chuyện. Từ Hà Nội, thiếu tướng Chu Phác hỏi: “Ở đấy ai là Thành?”. Anh Mẫn đáp: “Thưa chú! Thành là anh ruột cháu. Anh ấy là liệt sĩ. Chúng cháu đang tìm nhưng không thấy”. Thiếu tướng lại hỏi: “Ở đấy có ông chỉ huy tên Ngô Trọng Đãi đeo súng ngắn hy sinh không?” “Thưa chú! Chú Ngô Trọng Đãi là tiểu đoàn trưởng, hy sinh cùng anh cháu”. Thiếu tướng bảo: “Ông ấy đeo súng lục, tay cầm cái gậy, đuổi các cậu về và nói: Ở đây có hàng trăm liệt sĩ, chúng nó không tìm mà chỉ nhăm nhăm đi tìm một người là Thành - anh nó thì không cho tìm”. Thiếu tướng trùng giọng: “Thôi! Các cậu về đi. Về ngay để nghiên cứu, tổ chức lại cuộc tìm mộ này”.
Ngày 20 tháng 2 năm 2002, anh Phạm Văn Mẫn đã làm một lá đơn gửi Bộ môn cận tâm lý và Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người nhờ giúp đỡ tìm mộ anh trai và đồng đội ở K’Nak. Hơn một tháng sau, Bộ môn đã cử một đoàn công tác đặc biệt gồm 3 nhà ngoại cảm nổi tiếng: Phan Thị Bích Hằng, Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Khắc Bảy do Đại tá Hàn Thụy Vũ phụ trách trở lại Tây Nguyên. Anh Phạm Văn Mẫn đã trực tiếp mời Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó tư lệnh quân khu 5 cùng nhiều nhân chứng khác tham gia đoàn. Trước khi lên đường trở lại chiến trường xưa, đoàn tìm kiếm và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, bằng khả năng đặc biệt đã mời vong linh liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, tiểu đoàn trưởng và vong linh liệt sĩ Phạm Văn Thành về nhà riêng ở Khu tập thể Kim Liên để xin ý kiến. Cuộc trò chuyện kéo dài hơn một tiếng đồng hồ trong bảng lảng hương khói và nước mắt với rất nhiều thông tin của liệt sĩ Ngô Trọng Đãi đã mở ra hướng đi mới cho việc tìm mộ tập thể liệt sĩ ở Tây Nguyên.
KỲ 2: BÍ MẬT DƯỚI DÒNG ĐẮC-LỐP
(Phóng sự của nhà báo Hoàng Anh Sướng)

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Con người được cấu trúc như thế nào? (câu hỏi thứ 65)

27 Tháng 4 2014 lúc 0:07
(Dành cho bà con tin tưởng Điển Phật tham ngộ)

Phật bề trên dạy rằng:

Nhơn linh là do cấu trúc của ba phần: thể xác, tâm hồn và linh hồn tạo nên.

Thể xác là do các cấp độ hạt vật chất hữu hình tạo nên, từ hạt gốc ở can 9 cho đến hạt cơ bản ở can 10, từ đó tạo ra các mô, tế bào, da, xương, tủy, não, hệ thần kinh cảm giác, thần kinh vận động… gọi là đệ nhất xác thân. Đệ nhất xác thân phải ăn uống, hít thở, hoạt động trong môi trường tốt, thích hợp mới phát triển được.

Tâm hồn: ở trong thể xác, nó còn sâu thẳm và bí hiểm hơn đại não con người, bởi nó là do hạt điện Phàm Gian ở can 8 tạo nên. Hạt điện này có trường cảm giác, tri giác tương tác với xác thân giúp cho đệ nhất xác thân có cảm xúc nên được gọi là đệ nhị xác thân. Tâm hồn thì luôn giống như thể xác nên gọi gọn lại là tâm.

Tâm gồm có ngoại tâm và nội tâm. Ngoại tâm là những thế giới bên ngoài được ẩn chứa vào bên trong thể xác, đó là những quan hệ trong gia đình, xã hội, tự nhiên,.. với những vui buồn,lo toan trong cuộc sống... Ngoại tâm chi phối chủ yếu đến xác và làm chuyển biến một ít đến nội tâm, hay nó tạo điều kiện cho nội tâm phát triển tốt xấu.

Nội tâm: nếu như ngoại tâm là từ thể xác sinh ra và chi phối nhiều đến thể xác thì nội tâm ngược lại, nó được sinh ra từ chính linh hồn và bị chi phối mạnh bởi linh hồn. Nếu linh hồn gian tà hiểm ác thì nội tâm gian tà hiểm ác. Nếu hồn thiện lương thì nội tâm thiện lương… nên Điển Phật chủ yếu tu hồn là vậy.

Linh hồn: do khí điện từ dải can 4 đến dải can 7 tạo nên và nó ở trong tâm hồn (ngoại tâm). Cấu trúc cuả linh hồn nhơn linh hoàn toàn khác nhau và rất phức tạp nên cổ kim bàn luận nhiều về linh hồn mà chưa ai biết được linh hồn gồm:

78% khí điện ở dải can 7 (khí điện Cõi Phàm).
20% khí điện ở dải can 6 (khí điện Cõi Âm).
1,4% khí điện ở dải can 5 (khí điện Cõi Trời).
0,6% khí điện ở dải can 4 (khí điện Càn Khôn).

Qua đó, thấy rằng linh hồn chúng sanh rất nặng vì có tới 98% khí điện Cõi Phàm và Cõi Âm thì làm sao mà siêu thoát được! Chỉ cần chênh nhau 1 yoctô khí điện thôi thì linh hồn đã là khác nhau cơ bản rồi.


* 1 yoctô = một phần triệu tỉ tỉ

Sinh tử hữu mệnh, phú quý tại thiên là có hay không và như thế nào? (câu hỏi thứ 8)

26 Tháng 4 2014 lúc 23:45
(Dành cho bà con tin tưởng Điển Phật tham ngộ)

Phật bề trên dạy rằng: nhân sinh kim cổ truyền tụng chuyện này là có thật, nhưng cũng không đúng như bá tánh đồn đại và cũng không đúng như kinh kệ truyền tụng. Bởi số mạng là chuyện của cõi nhà Âm, của cõi nhà Trời và đều phải nhất nhất tuân theo cơ Phật định.

Việc cơ định mọi chuyện của một kiếp như tốt xấu, dữ lành… cao nhất là 61% mà thôi. Mọi chuyện còn lại đều do chính bản thân chúng sanh đó quyết định, nghĩa là còn lại 39% đó để cho chúng sanh ăn năn sám hối. Đó cũng là đức hiếu sinh của Đấng Tạo Hóa.

Vì như vậy mới có thiên cơ bất biến và thiên cơ khả biến. Bất biến hay khả biến là tùy theo nhiều trường hợp khác nhau để xem xét định cơ. Nhơn sanh không ai hiểu được cơ nên họ nói muôn việc tại trời là sai, và nhân định thắng thiên cũng là sai cả hết.

Tóm lại, chư linh, chư phật cũng chưa hiểu rõ được cơ. Phật bề trên có truyền dạy rằng:

Sinh nơi hiền dữ,
Sinh tử bệnh nạn,
Phú quý bần hàn,
Vợ chồng con cái,
Đều do Phật định cả.

Đó gọi là tiền định. Tiền định là dựa vào nhân quả nghiệp duyên của từng nhân linh để mà định trước mọi việc như: Sinh ra vào ngày tháng năm nào? Cha mẹ anh chị em là những ai? Sinh ra ở đâu, thời điểm nào?.... để phải chịu lấy hoàn cảnh kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa xã hội… của quốc gia đó, của miền đó, của gia đình đó… Từ đó phải chịu lấy những kiếp nạn chung, riêng... và cũng từ đó phải biết ăn năn sám hối.

Độ lượng và từ bi là như thế nào? (câu hỏi thứ 72)

26 Tháng 4 2014 lúc 23:40
(Dành cho bà con tin tưởng Điển Phật tham ngộ)

Phật bề trên dạy rằng: độ lượng theo nghĩa của người đời là bao dung, nghĩa là đức tính cao thượng, có tấm lòng rộng rãi, không trách cứ sự sai lầm hay thiếu sót của người khác. Theo nghĩa của kinh kệ nhân gian, từ bi bác ái nghĩa là lòng yêu thương rộng lớn bao trùm lên mọi người, mọi vật.

Với Phật bề trên, độ lượng là pháp lực xuyên suốt nhìn thấy rõ khoảng thời gian để làm chuyển hóa được sinh linh vạn loại, chư linh, chư phật. Chỉ có Phật bề trên mới có pháp lực nhìn thấu mọi sự chuyển hóa đó của chúng sanh vạn loại.

Ví dụ như với cấu trúc phân tử của từng kim loại là khác nhau nên chúng có nhiệt độ nóng chảy, tan chảy, bốc hơi, không còn tồn tại, … khác nhau. Và Phật nhìn thấu rõ nhiệt độ đó là bao nhiêu với thời gian như thế nào – hay nói cách khác là nhìn thấu và xác định rõ khoảng thời gian mà một căn hồn chuyển hóa được. Phải nhìn thấu rõ mọi sự chuyển hóa đó mới gọi là độ lượng.

Cha Phật cũng có nói: “Độ lượng sinh hại đa.” Như vậy có nghĩa là, nếu bao dung như người đời nói, hay từ bi bác ái như kinh kệ nói mà không thấu rõ căn nguyên thì chỉ sinh hại cho bá tánh, sinh linh mà thôi.